Trong số 130 triệu lao động di trú hiện nay tại Trung Quốc có hơn một phần ba là phụ nữ – những người đang chịu nhiều rủi ro và mất mát để phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Một trong những đặc điểm quan trọng của nữ lao động di trú là "họ có khuynh hướng trẻ hơn, tỷ lệ độc thân cao hơn, đi xa hơn và đeo bám thành phố lâu hơn nam giới".
Gái công xưởng(*) với ngôn ngữ nhuần nhuyễn giữa phóng sự ghi chép và nghiên cứu, là cuốn sách lặn sâu vào đời sống của những lao động nữ tại các công xưởng ở những thành phố công nghiệp như Thâm Quyến, Đông Quản, nhằm phơi bày đời sống khốc liệt, mất cân bằng, bất bình đẳng giới và phân biệt giàu nghèo cao độ đang diễn ra trong lòng xã hội Trung Quốc.
Tác giả Leslie T.Chang thâm nhập thực tế bằng những chuyến xe buýt đi lại giữa các khu công nghiệp, tiếp cận những thực tế u ám về tình cảnh của những người xa quê lên phố lập nghiệp: "Hầu hết mọi lao động di trú đều liên tưởng quê hương mình với nghèo đói và lạc hậu, thậm chí một số người còn ngần ngại không muốn nói ra tên ngôi làng của họ"; "Rời bỏ quê hương và làm việc trong nhà máy là việc khó khăn nhất họ từng làm. Đó cũng là một cuộc phiêu lưu. Thứ giữ họ ở lại thành phố không phải nỗi sợ mà là lòng kiêu hãnh: trở về sớm tức là đã thừa nhận mình thất bại. Rời quê hương và ở lại – xuất khứ – là để thay đổi số phận của bạn".
Vô số những chướng ngại mở ra trước mặt một nữ lao động di trú bình thường. Đó là sự khó khăn trong cơ chế quản lý nhân khẩu, sự vắt chanh bỏ vỏ của các ông chủ thực dụng, người lao động nhập cư phải chấp nhận cái nhìn thiếu thiện cảm của người thành phố. Hầu hết những người ly hương trẻ ngày nay không ra đi từ đồng ruộng: họ đến từ trường học. Đồng áng giờ là việc mà họ quan sát cha mẹ mình làm".
Thế thì, ngoài khát vọng đổi đời, kiếm sống, họ đến thành phố còn vì điều gì? Cuốn sách hé lộ: "Trong các phiếu điều tra, những người di trú đã xếp "biết đó biết đây", "phát triển bản thân" và "học kỹ năng mới" cũng quan trọng như là tăng thu nhập vậy. Trong nhiều trường hợp, nguyên nhân khiến người ta bỏ quê nhà ra đi không phải là sự nghèo đói làm méo mó nông thôn mà là tình trạng nhàn rỗi – nhà chẳng có gì để làm cả, vì vậy tôi ra đi".
Từ đây có người may mắn tìm được dịp đổi đời, có kẻ lại chôn tuổi xuân trong những công xưởng, quên hết ý niệm thời gian, hạnh phúc riêng, có kẻ lao vào những khóa "ngoại ngữ công xưởng" để "thăng tiến" thu nhập, kẻ khác ngấp nghé cơ hội đổi đời thì mưu cầu hạnh phúc bằng cách tham gia các câu lạc bộ kết bạn, nơi mà tình người hết sức rủi ro và tạm bợ, cũng có người bị "trật khớp" văng ra khỏi cỗ máy chung và rơi vào những bẫy tệ nạn xã hội…
Hàng chục chân dung cụ thể, hàng chục tình cảnh được Leslie T.Chang đưa vào sách minh chứng cho sự đa dạng trong việc kiếm tìm mục đích sống của những cô gái công xưởng. Một trong những chi tiết từ quan sát tinh tế của tác giả cho thấy một thực tế đau lòng: Trên các bức tường thành phố, cạnh những tờ quảng cáo tuyển dụng lao động, phòng khám chữa bệnh giang mai là thông báo tìm người mất tích. Những thông báo của người nhà từ nông thôn gửi lên. Và, từ đây, tác giả nhìn sâu vào vật bất ly thân của người công nhân là chiếc điện thoại di động, để giải mã: nó là vật ghim giữ sự tồn tại của con người với một nơi nào đó, vừa là kênh giao tiếp, tâm tình, than thở, là phương tiện giải trí và khoa trương…
Một bức tranh với gam màu ảm đạm, đầy thương cảm từ một thực tế mà những nhà chính trị luôn muốn khỏa lấp bằng vẻ ngoài thịnh vượng và sự tăng trưởng. Cuốn sách này từng giành giải non-fiction (phi hư cấu) năm 2009 của hội văn bút Mỹ (PEN) và lọt vào 100 cuốn sách đáng đọc do tờ The New York Times bình chọn.
Với bạn đọc Việt Nam, bức tranh gái công xưởng tại công xưởng thế giới Trung Quốc mà cuốn sách này phơi bày gợi những liên tưởng sống động, thời sự và hết sức gần gũi.
Nguyễn Vĩnh Nguyên
Xem thêm nhiều hơn Thu gọn