Được sống và kể lại” là cuốn tự truyện về chiến tranh mới nhất hiện có mặt trên các quầy sách những ngày tháng 4 này. Tác giả của nó, điêu khắc gia Trần Luân Tín, nguyên là chiến sĩ Tiểu đoàn 18 thông tin Sư đoàn 325 Quân đoàn 2. Đơn vị này đã trực tiếp tham chiến tại Thành cổ Quảng Trị những năm 1972 rực lửa.
Với dòng chú thích ngắn gọn trên bìa 1 của cuốn sách, với hai chữ “tự truyện” nằm ngay bìa 2, ắt hẳn nhiều người sẽ nghĩ thầm “lại thêm một cuốn sách kể về chiến tranh”. Điều đó không đủ. Được sống và kể lại không chỉ nói về chiến tranh dù hình ảnh cuộc chiến nằm trên mỗi trang giấy suốt hơn 300 trang sách.
Những gì mà nhà điêu khắc Trần Luân Tín viết về quãng thời gian 4 năm chiến đấu của mình không phải là những trận đánh, cũng không phải là hào quang của chiến thắng hay hoài niệm về mất mát, hy sinh. Tất cả những điều đó đều có trong cuốn sách, nhưng với bất cứ ai đã đọc, sẽ cảm nhận được cuốn tự truyện này không phải viết về chiến tranh, mà là của một người lính viết về chính anh và đồng đội, về những ai đã sống, đã hy sinh trong chiến tranh. Tất cả được kể lại nhân danh một người đã thoát chết trong chiến tranh, được sống.
Toàn bộ cuốn sách kéo dài trong 4 năm, chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị nhập ngũ và mới nhập ngũ, giai đoạn chiến đấu và giai đoạn tiến vào giải phóng, tiếp quản. Tuy nhiên, do đặc thù của tác giả, thực tế tất cả nội dung của sách chỉ tập trung vào giai đoạn chiến đấu.
Năm 1971, Trần Luân Tín khi đó vừa 20 tuổi và là sinh viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam. Một tâm hồn và tư chất nghệ sĩ, nhưng chỉ một năm sau khi nhập ngũ, anh đã tham dự một trong những trận đánh khốc liệt nhất trong chiến tranh chống Mỹ, trận thành cổ Quảng Trị năm 1972. Với vai trò là lính thông tin, khác với những đồng đội trực tiếp cầm súng chỉ vượt sông Thạch Hãn vào chảo lửa Thành cổ 1-2 lần, Tín và đồng đội đã phải liên tục vượt sông nhằm đảm bảo thông tin liên lạc cho đơn vị.
Cái nhìn của một nghệ sĩ, vai trò của một người lính, tại nơi khốc liệt nhất thế giới, tất cả đã làm cho người lính – nghệ sĩ Trần Luân Tín có những cái nhìn đặc biệt về cuộc sống của con người trong chiến tranh. Nhưng đó không phải động lực để người cựu chiến binh viết cuốn sách này. “Ba, người chết lúc ấy chôn như thế nào?”. Câu hỏi của cô con gái lớn khi cùng cha mẹ xem qua màn ảnh nhỏ lễ kỷ niệm 30 năm trận đánh Thành cổ đã khiến anh phải cầm bút, cầm bút để kể rằng những người lính, họ đã ra đi như thế nào trong chiến tranh.
Cấu trúc của cuốn tự truyện này cũng khá lạ, ngoài chủ đạo là hồi ức, nó còn pha trộn một chút hiện tại thông qua cảm nhận trong một chuyến đi Mỹ của tác giả.
Nếu nhật ký mang đậm hơi thở của sự kiện, của chi tiết, lưu giữ những ấn tượng nóng hổi, cảm xúc mãnh liệt của một chàng trai 20 tuổi với những gì mình vừa chứng kiến, trải qua thì những dòng tự truyện do một người đàn ông 50 tuổi, viết lại sau 30 năm, lại mang tính chiêm nghiệm, sâu sắc và nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Và đó chính là điều mới lạ so với nhiều tác phẩm khác viết về chiến tranh, nhất là về trận đánh Thành cổ Quảng Trị. 30 năm, quãng thời gian đủ để tác giả có thể bình tĩnh hơn khi miêu tả một cách nhẹ nhàng những xoáy nước ùng ục cuốn những người đồng đội hy sinh xuống đáy sông Thạch Hãn; cũng nhẹ nhàng hơn khi kể về căn hầm trung đoàn cố thủ Thành cổ với ngổn ngang thương binh.
Thậm chí, còn nhẹ nhàng kể lại những lúc đi rải đường dây trong mưa pháo, vừa đi vừa đếm “1-2-3, trúng này” và mừng rỡ khi chẳng có mảnh đạn nào nghe lời mà trúng chính mình. Cả những lúc tác giả miêu tả về sự hy sinh của đồng đội cũng nhẹ nhàng, không chứa đầy nước mắt, khốc liệt, đau xót như nhiều tác phẩm khác.
Vì sao? Phải chăng vì thời gian đã làm nguội lại những nỗi đau! Chính tác giả đã trả lời trong cuốn tự truyện này ngay từ những dòng đầu tiên khi anh phê phán những ý kiến cho rằng, chiến tranh chống Mỹ chỉ thuần túy đau thương mất mát. “Tôi đã nghe cách lập luận này không ít lần, cách thức là rút đi các dữ kiện lịch sử của thời điểm xảy ra chiến tranh, chỉ giữ lại nguyên một cục thương đau khốc liệt, đặt nó lên mặt bàn và bình luận”.
Trần Luân Tín cũng như những đồng đội của mình ngày đó, khi bước vào mặt trận, ai trong số họ chẳng sợ hãi cái áp lực khủng khiếp của bom đạn, của máu lửa, của chết chóc. Nhưng họ hiểu rõ vì sao mình ra trận, hiểu rõ mình chiến đấu vì điều gì, và một khi đã hiểu rõ những điều đó thì mọi cái còn lại đều “trở nên bình thường” (trích đoạn trong tự truyện).
Nhưng tận sâu trong đáy lòng, người lính vẫn mong mỏi hòa bình, vẫn muốn được sống với ước mơ của mình. Họ mong mỏi đất nước thống nhất, kẻ thù bị đánh đuổi và họ sẽ được trở lại cuộc sống vốn có, không phải cầm súng, không phải tiếp tục chiến tranh.
Câu chuyện nhỏ cuối cùng của tự truyện mà tác giả kể lại là vào đêm 30-4, rạng sáng 1-5-1975, trong một chốt gác trên đường phố Sài Gòn, 3 anh lính trẻ trong giờ phút trọng đại của đất nước đều muốn làm một cái gì đó để thỏa nỗi niềm vui sướng. Họ đã chọn cách mỗi người cùng hét lên một câu bất kỳ nghĩ ra trong đầu và họ đã cùng hét vang giữa cái đêm đầu tiên đất nước thống nhất 2 chữ: “Hòa bình”.
Tác giả của Được sống và kể lại tự nhận xét về tác phẩm của mình: “…Tôi chỉ đơn giản là ghi lại thôi. Cho con nó đọc, cho bọn trẻ sau này đứa nào cần biết thêm về thời chiến tranh thì đọc…”. Và tác phẩm đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, khắc họa một góc của chiến tranh dưới mắt một người lính, một người cùng với hàng vạn người khác đã sống, chiến đấu và hy sinh cho quê hương.
Tường Vy
(Nguồn: Báo SGGP)
Xem thêm nhiều hơn Thu gọn