Một ngày giữa những năm 60 của thế kỷ trước, khi bình minh vừa ló dạng, tôi lon ton theo mẹ qua cầu Long Biên, để đi sơ tán. Mẹ gánh đôi tay nải may bằng vải. Tôi xách chiếc xắc du lịch cũ, trong đựng mấy bộ quần áo, hai đôi guốc gỗ sơn hoa mang theo dự trữ! Xách mãi mỏi tay, có lúc tôi luồn hai tay vào hai quai xắc, đeo sau lưng như ba lô. Đến giữa cầu nhìn lên cao, thấy trên đỉnh nhịp cầu có chiếc thùng hình vuông rất to, làm bằng sắt và gỗ, thấp thoáng bóng người và nòng súng nhô ra, tôi hỏi đó là ai, mẹ bảo: "Các anh cảm tử quân, con ạ!". Khi ấy, chưa biểu cảm tử quân là gì, nhưng tôi cũng ngờ ngợ đó là những người dũng cảm. Gần mười năm sau, lúc nửa đêm, cùng bạn bè mới nhập ngũ, tôi ngồi trên tàu hỏa qua cầu Long Biên. Cầu vắng bóng người, thi thoảng mới thấy có bác xe thồ chở rau từ Gia Lâm sang. Cả nghìn anh lính trẻ thò đầu qua cửa sổ nhìn về phía Hà Nội, rồi không biết ai đó cất lên: "Tôi đứng đây trên nhịp cầu Long Biên lộng gió". Thế là chúng tôi cùng hát, hát say sưa, hát như gào lên. Có lẽ đó là lần duy nhất ca khúc của nhạc sĩ Văn An được cất lên qua giọng hát của hàng nghìn người. Hà Nội xa dần, cuối cùng chỉ còn là một quầng sáng mờ. Tới khi ấy tôi mới biết, tôi yêu thành phố của mình thế nào, và tôi đã để lại phía sau bao nhiêu kỷ niệm. Trong chuyến tàu năm đó, nhiều bạn bè tôi đã không trở về, chúng tôi vẫn nhớ họ, vẫn nhắc đến họ trong những lần anh em tập trung nhân ngày nhập ngũ, ngày thành lập QĐND Việt Nam. Đó cũng là lý do làm cho tôi thuộc nằm lòng ca từ một ca khúc của Trần Tiến: "Ở nơi ấy tôi còn nhớ bạn bè xưa – Dòng máu sĩ bao người đi không về – Tháp Rùa ơi có nhớ bạn tôi – Hồn tha phương vẫn quanh quẩn phố phường…".
Yêu Hà Nội, bản tính lại tò mò, ham đọc, ham tìm hiểu, tôi đã đọc vô số sách viết về Hà Nội để rồi càng gần đây, tôi càng nhận ra trong số sách vở cùng đề tài mới xuất bản, một số tác giả đã thao tác theo lối cóp nhặt, xào xáo hơn là viết từ tư liệu tự khám phá, từ vốn liếng hiểu biết và từ suy tư của chính mình. Một thành phố có 1.000 năm tuổi, hẳn sẽ có rất nhiều điều để viết. Một thành phố gắn liền với mọi thăng trầm, biến thiên của đất nước, hẳn sẽ có nhiều điều để kể. Một thành phố mà sự ra đời, phát triển luôn đi cùng với quá trình tích hợp văn hóa đa dạng và phong phú, hẳn sẽ có nhiều sự kiện – hiện tượng để luận bàn… Và tất thảy những viết – kể – luận ấy sẽ chỉ có ý nghĩa khi người ta tiếp cận Hà Nội như một đối tượng khảo cứu, hiểu Hà Nội trong quá trình phát triển đã trở thành một "vỉa tầng" không bao giờ vơi cạn các thú vị bất ngờ; đặc biệt hơn, nếu có điều kiện, nên nhập thân vào nó để cảm, để hiểu, để suy nghĩ, để lý giải, để chia sẻ… Và hình như đến nay, với đề tài Hà Nội, số tác giả như vậy chưa nhiều.
Năm 2008, đọc 5678 bước chân quanh Hồ Gươm của Nguyễn Ngọc Tiến, tôi thấy thú vị. Đầu năm 2012, đọc Đi ngang Hà Nội của anh, tôi coi cuốn sách là một thành tựu rất cần trân trọng. Rồi vài tháng sau, đọc bản thảo Đi dọc Hà Nội, tôi đã có cái nhìn toàn diện hơn về tác giả. Tôi nhận ra một Nguyễn Ngọc Tiến không chỉ là một nhà báo, anh làm công việc khảo cứu một cách chững chạc, cẩn trọng, kỹ lưỡng, có trách nhiệm, và có chính kiến riêng… Vì thế, liệu có là quá lời khi khẳng định, đến Đi dọc Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến thực sự mở ra cách tiếp cận mới, rất khác so với một số tác giả trước đây, cũng như đương thời, và anh đã thành công? Tôi đưa ra giả định này bởi qua ba cuốn sách, tôi nhận ra các bài ký sự – khảo cứu lịch sử văn hóa tinh tế của anh đã đạt tới "một đẳng cấp mới". Và khi tập hợp trong các cuốn sách, chúng sẽ không chỉ để thỏa mãn nhu cầu đọc thuần túy, mà còn giúp vào sự hiểu biết. Khẳng định đó là có cơ sở, nếu lần lượt đọc ba cuốn sách tôi đã nhắc tới ở trên. Đặc biệt, với Đi dọc Hà Nội, các tư liệu và các giả định từ tư liệu được Nguyễn Ngọc Tiến khai thác, khai triển theo một logic nhất quán, trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn báo chí và văn khảo cứu. Đáng trân trọng là, các giả thuyết Nguyễn Ngọc Tiến đưa ra đều dựa trên cơ sở tư liệu cụ thể, luận giải khách quan, nhưng anh không có ý định bác bỏ ý kiến của tác giả đi trước. Anh đưa ra tư liệu mới, giả thuyết mới, để người quan tâm có thể cùng suy ngẫm. Thiết nghĩ đó là thái độ nghiêm túc, trong bối cảnh lưu trữ tư liệu ít được quan tâm, nhân chứng lịch sử về Hà Nội đang vơi mỏng theo thời gian, và các lớp "sa bồi" văn hóa – lịch sử của Hà Nội đã chồng lấn lên nhau, xen kẽ vào nhau, bác học hòa lẫn với dân gian, khiến khó có thể bóc tách một cách rạch ròi. Về phần mình, tôi quan tâm đến các ghi chép của Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ… mà Nguyễn Ngọc Tiến khai thác, nhất là ghi chép của một số tác giả là người Pháp ở Việt Nam trong khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, các tài liệu này không nhiều, nhưng nếu biết khai thác, lại lựa chọn góc nhìn cẩn trọng theo hai chiều lịch đại và đồng đại, thì có thể sắp xếp các chi tiết để phác họa diễn trình và toàn cảnh của sự vật – hiện tượng với mọi hay – dở, đưa tới ý nghĩa tham chiếu. Trong Đi dọc Hà Nội, các ký sự – khảo cứu công phu và có giá trị như vậy khá nhiều, như: Ai xây Tháp rùa?, Răng đen, răng trắng và răng Tetracylin, Đào Nhật Tân có từ bao giờ?, Thuốc phiện ở Hà Nội, Những ngã tư và những cột đèn, Phim và rạp một thời…
Đọc những trang sách viết về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến, tôi lại có thêm nhiều hiểu biết, thêm yêu thành phố của tôi. Và ấn tượng sâu đậm nhất từ tập sách chính là hình ảnh của "người Hà Nội", trong đó nổi lên hình ảnh của BS Trần Duy Hưng – vị chủ tịch đầu tiên của Thủ đô, người mà từ ngày còn nhỏ, tôi đã đôi lần được gặp, khi ông đến nhà bà nội tôi ở phố Ấu Triệu để tặng lụa, quà tết cho người trên 100 tuổi. Tài năng, trí tuệ và nhiệt huyết với dân với nước, đức độ và lịch lãm trong cuộc sống hàng ngày, hoàn toàn có thể coi BS Trần Duy Hưng là một mẫu hình tiêu biểu của "người Hà Nội" ở thời hiện đại, và dường như đây cũng là điều Nguyễn Ngọc Tiến muốn gửi gắm qua ký sự Người Hà Nội của anh. Từ đó nhìn rộng ra tôi nghĩ, "văn hóa Hà Nội và người Hà Nội" hai khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng, có thể xác định nội hàm qua ứng xử thường nhật của con người, qua những gì chỉ còn là vang bóng, qua những điều đang hiện hữu, đồng thời lại chỉ có thể "cảm thấy" một cách mơ hồ, không rõ rệt. Chắc chắn "văn hóa Hà Nội và người Hà Nội" là hai khái niệm hình thành từ lâu đời, thường được coi như mẫu hình về văn hóa và con người của đất nước. Thế nên, trải dài theo lịch sử, dù Thăng Long – Hà Nội có biến động thế nào thì hai khái niệm ấy vẫn tồn tại, và song hành cùng thời gian. Nếu trong 5678 bước chân quanh Hồ Gươm và Đi ngang Hà Nội, Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa người đọc đến với "văn hóa Hà Nội và người Hà Nội" từ rất nhiều góc nhìn khác nhau; thì với Đi dọc Hà Nội, anh tiếp tục triển khai góc nhìn mới về một số vấn đề – sự kiện, giúp người đọc biết về "người Tràng An thanh lịch" qua thú chơi hoa, qua lịch sử cầu Thê Húc, qua thuốc phiện và rượu lậu của một thời… Và các vấn đề – sự kiện ấy luôn được Nguyễn Ngọc Tiến xây dựng trên nền tảng con người, mà nổi trội là những người Hà Nội rất bình thường. Họ là người trồng hoa ở làng Ngọc Hà, là chị công nhân đã có mấy chục năm làm công việc coi sóc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ Hồ, và xa nữa về thời gian là những anh chị, cô bác bán hàng rong, người hát xẩm… cùng với các câu vè, lời rao hàng sinh động và lý thú. Đó là những con người đã góp phần làm nên một diện mạo khác của Hà Nội, khác xa với những "dân chơi" của đất kinh kỳ.
Sau khi đọc hết cuốn sách thú vị này, bạn đọc nào đó có thể còn thấy "thòm thèm", thậm chí chưa vừa ý, nhưng dẫu sao, vẫn cần phải cảm ơn tác giả. Vì khi mà ngay tại Hà Nội này, cuộc mưu sinh đang kéo nhiều người trong chúng ta vào vòng xoáy của các lợi ích cho hiện tại và tương lai, không có thời gian, thậm chí lơ đễnh khi nhìn về quá khứ, thì ngòi bút tài hoa của Nguyễn Ngọc Tiến vẫn cần mẫn và kỳ công, để viết nên những trang sách không dễ viết. Đó cũng là những trang sách có thể giúp chúng ta hiểu thêm về quá khứ, về dòng chảy văn hóa và dấu ấn của nhiều thế hệ ở Hà thành, đồng thời nhắc nhở chúng ta rằng, hiện tại và tương lai không đến từ hư vô, mà đến từ quá khứ.
Nhà phê bình Nguyễn Hòa
Xem thêm nhiều hơn Thu gọn