Mùi hương – cuốn tiểu thuyết đầu tay của nhà văn người Đức Patrick Susskind vừa được NXB Văn học cho ra mắt bạn đọc trong tháng 4.2007, cũng là cuốn sách mà NXB Lao động in năm 2005, cùng với một người dịch là Lê Chu Cầu. Mùi hương mới in trông có vẻ “bắt mắt” hơn, cùng với lời “dẫn dụ” câu khách rằng đây là “Chuyện của một kẻ giết người”.
Đây có phải là câu chuyện của một kẻ giết người không, xin bạn đọc hãy tự kiểm tra. Tuy nhiên, qua đánh giá của dư luận thì rõ ràng đây là một cuốn sách hay, hấp dẫn, từng nằm trong danh sách bestseller. Mùi hương cũng vừa được dựng thành phim năm 2006, tại Đức; và hiện đã có đĩa DVD ở VN. Với tất cả những thông tin trên, thoạt qua chúng ta sẽ cảm tưởng rằng đây là một cuốn sách mới. Kỳ thực Mùi hương đã được in tại Đức từ năm 1985 và sau đó đã xuất bản nhiều nơi trên thế giới. Hơn 20 năm, một cuốn sách hay mới đến tay bạn đọc VN. Nói một cách nào đó, chúng ta đang đọc một… cuốn sách cũ. Việc chúng ta đang đọc những cuốn sách cũ, hình như đang là một “xu hướng”. Năm 2005, NXB Hội Nhà văn ấn hành cuốn Những mẩu chuyện nước Ý của Macxim Gorki; theo lời dịch giả Nguyễn Thụy Ứng thì bản dịch đầu tiên đã được in vào năm 1968 bởi NXB Văn hóa. Cuốn sách sau gần 40 năm đã được dịch lại một cách kỹ lưỡng hơn trước khi cho tái bản. Nhưng vào thời điểm 40 năm trước, Những mẩu chuyện nước Ý cũng không phải là mới; bởi nó đã được in ở Nga vào năm 1920.
Cũng tương tự như thế, năm 2006 NXB Đà Nẵng & Nhà sách Kiến thức cho in cuốn tiểu thuyết Rừng thẳm của nhà văn người Pháp Julien Gracq (Hoàng Hà Constant dịch), thì cuốn sách này đã được xuất bản ở Pháp từ năm 1958; năm 2006, NXB Văn học cho in cuốn tiểu thuyết Zorba-con người hoan lạc của nhà văn người Hy Lạp Nikos Kazantzakis (bản dịch Dương Tường) thì trước đó cuốn này đã được in nhiều lần; với bản in bằng tiếng Anh đầu tiên vào năm 1965; năm 2006, độc giả VN đón nhận một cách hứng khởi cuốn tiểu thuyết Hạt cơ bản của Michel Houellebecq (NXB Đà Nẵng; bản dịch Cao Việt Dũng) với tất cả sự mê hoặc, mới mẻ của nó; thì cuốn này đã được in ở Pháp vào năm 1998 v.v… Hầu hết những cuốn sách in lại đều cẩn thận viết lời giới thiệu, chú thích bản in lần thứ mấy, để độc giả có đối sánh và soi rọi tốt hơn. Chọn lựa những dịch giả giỏi, có “gu” riêng với từng tác giả, từng dòng văn học để có những ấn phẩm tốt nhất là điều mà các NXB và những người làm sách hết sức cân nhắc.
Thông thường là dùng lại những bản dịch cũ của những dịch giả giỏi đã được thẩm định qua thời gian. Chẳng hạn, khi đọc Chân dung chàng nghệ sĩ trẻ của James Joyce (Hoàng Hạc -1970) thì khó có thể chê bản dịch của Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh; đọc Của chuột và người của John Steinbeck hẳn rất thích thú với bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập, từng được giới thiệu trên Tập san Văn (1967)… Cho nên những bản in lại sau này đều chọn phương án tối ưu là sử dụng lại những bản dịch cũ ấy.
Cũng có những trường hợp, người làm sách cho dịch lại bản sách đã in. Nhưng trong tình trạng chúng ta đang “neo” dịch giả giỏi, tâm huyết với nghề như hiện nay thì những bản dịch mới thường không mấy thành công. Ví dụ cuốn Tự do đầu tiên và cuối cùng của Krishnamutri đã được dịch lại, nhưng nếu được phép chọn lựa, người mê sách hẳn vẫn thích đọc bản dịch của Phạm Công Thiện (An Tiêm -1968). Đối với mảng sách văn học nước ngoài, bên cạnh việc giới thiệu một cách kịp thời một số tác phẩm đoạt những giải thưởng danh giá, như Nobel, Goncourt, Booker…; thì có thể nói chúng ta vẫn đang đọc hầu hết những cuốn sách cũ. Việc giới thiệu kịp thời những tác phẩm đoạt những giải thưởng văn học danh giá là cần thiết. Nhưng, chúng ta ai cũng biết là có những cuốn sách rất hay mà không hề nhận được giải thưởng nào.
Nói như GS Hán học người Đức Wolfgang Kubin thì ngay cả giải Nobel văn học cũng là thứ yếu: “Ai viết không hay thì mới mong có thể nhận giải. Nếu viết được thì cả đời chẳng cần hy vọng (giải) gì”.
Chúng ta đang đọc những cuốn sách cũ
Ngày 02/06/2007 | | Mùi hương – cuốn tiểu thuyết đầu tay của nhà văn người Đức Patrick Susskind vừa được NXB Văn học cho ra mắt bạn đọc trong tháng 4.2007, cũng là cuốn sách mà NXB Lao động in năm 2005, cùng với một người dịch là Lê Chu Cầu. Mùi hương mới in trông có vẻ “bắt mắt” hơn, cùng với lời “dẫn dụ” câu khách rằng đây là “Chuyện của một kẻ giết người”.
Đây có phải là câu chuyện của một kẻ giết người không, xin bạn đọc hãy tự kiểm tra. Tuy nhiên, qua đánh giá của dư luận thì rõ ràng đây là một cuốn sách hay, hấp dẫn, từng nằm trong danh sách bestseller. Mùi hương cũng vừa được dựng thành phim năm 2006, tại Đức; và hiện đã có đĩa DVD ở VN. Với tất cả những thông tin trên, thoạt qua chúng ta sẽ cảm tưởng rằng đây là một cuốn sách mới. Kỳ thực Mùi hương đã được in tại Đức từ năm 1985 và sau đó đã xuất bản nhiều nơi trên thế giới. Hơn 20 năm, một cuốn sách hay mới đến tay bạn đọc VN. Nói một cách nào đó, chúng ta đang đọc một… cuốn sách cũ. Việc chúng ta đang đọc những cuốn sách cũ, hình như đang là một “xu hướng”. Năm 2005, NXB Hội Nhà văn ấn hành cuốn Những mẩu chuyện nước Ý của Macxim Gorki; theo lời dịch giả Nguyễn Thụy Ứng thì bản dịch đầu tiên đã được in vào năm 1968 bởi NXB Văn hóa. Cuốn sách sau gần 40 năm đã được dịch lại một cách kỹ lưỡng hơn trước khi cho tái bản. Nhưng vào thời điểm 40 năm trước, Những mẩu chuyện nước Ý cũng không phải là mới; bởi nó đã được in ở Nga vào năm 1920.
Cũng tương tự như thế, năm 2006 NXB Đà Nẵng & Nhà sách Kiến thức cho in cuốn tiểu thuyết Rừng thẳm của nhà văn người Pháp Julien Gracq (Hoàng Hà Constant dịch), thì cuốn sách này đã được xuất bản ở Pháp từ năm 1958; năm 2006, NXB Văn học cho in cuốn tiểu thuyết Zorba-con người hoan lạc của nhà văn người Hy Lạp Nikos Kazantzakis (bản dịch Dương Tường) thì trước đó cuốn này đã được in nhiều lần; với bản in bằng tiếng Anh đầu tiên vào năm 1965; năm 2006, độc giả VN đón nhận một cách hứng khởi cuốn tiểu thuyết Hạt cơ bản của Michel Houellebecq (NXB Đà Nẵng; bản dịch Cao Việt Dũng) với tất cả sự mê hoặc, mới mẻ của nó; thì cuốn này đã được in ở Pháp vào năm 1998 v.v… Hầu hết những cuốn sách in lại đều cẩn thận viết lời giới thiệu, chú thích bản in lần thứ mấy, để độc giả có đối sánh và soi rọi tốt hơn. Chọn lựa những dịch giả giỏi, có “gu” riêng với từng tác giả, từng dòng văn học để có những ấn phẩm tốt nhất là điều mà các NXB và những người làm sách hết sức cân nhắc.
Thông thường là dùng lại những bản dịch cũ của những dịch giả giỏi đã được thẩm định qua thời gian. Chẳng hạn, khi đọc Chân dung chàng nghệ sĩ trẻ của James Joyce (Hoàng Hạc -1970) thì khó có thể chê bản dịch của Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh; đọc Của chuột và người của John Steinbeck hẳn rất thích thú với bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập, từng được giới thiệu trên Tập san Văn (1967)… Cho nên những bản in lại sau này đều chọn phương án tối ưu là sử dụng lại những bản dịch cũ ấy.
Cũng có những trường hợp, người làm sách cho dịch lại bản sách đã in. Nhưng trong tình trạng chúng ta đang “neo” dịch giả giỏi, tâm huyết với nghề như hiện nay thì những bản dịch mới thường không mấy thành công. Ví dụ cuốn Tự do đầu tiên và cuối cùng của Krishnamutri đã được dịch lại, nhưng nếu được phép chọn lựa, người mê sách hẳn vẫn thích đọc bản dịch của Phạm Công Thiện (An Tiêm -1968). Đối với mảng sách văn học nước ngoài, bên cạnh việc giới thiệu một cách kịp thời một số tác phẩm đoạt những giải thưởng danh giá, như Nobel, Goncourt, Booker…; thì có thể nói chúng ta vẫn đang đọc hầu hết những cuốn sách cũ. Việc giới thiệu kịp thời những tác phẩm đoạt những giải thưởng văn học danh giá là cần thiết. Nhưng, chúng ta ai cũng biết là có những cuốn sách rất hay mà không hề nhận được giải thưởng nào.
Nói như GS Hán học người Đức Wolfgang Kubin thì ngay cả giải Nobel văn học cũng là thứ yếu: “Ai viết không hay thì mới mong có thể nhận giải. Nếu viết được thì cả đời chẳng cần hy vọng (giải) gì”. Thế nhưng, trong thực tế lâu nay chúng ta có thói quen dịch, giới thiệu những cuốn đoạt giải, chứ ít chú trọng đến sách mới (bình thường) mà hay. Chúng ta, phần nhiều vẫn đang đọc những cuốn sách cũ. May mắn, những cuốn sách cũ, vốn thường là sách hay. Trần Nhã Thụy
|
Xem thêm nhiều hơn Thu gọn
Mẹ Teresa – Trên Cả Tình Yêu
“Mẹ Teresa – Trên cả tình yêu” (VTV Ngày 08/03/2008) Được mệnh danh là “Vị thánh của người cùng khổ” Mẹ Teresa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất và được kính trọng nhất của thế kỷ 20. Mẹ đã dành trọn đời mình cho những người nghèo, cho những trẻ em mồ côi sống vất vưởng trên đường phố, cho những con người đang bệnh tật, phong cùi hay đang hấp hối… Cuốn sách “Mẹ Teresa – Trên cả tình yêu” sẽ giúp bạn thấy rõ hơn chân dung người phụ nữ đặc biệt này. Bất cứ ai trên thế giới này, khi nhắc đến cái tên Teresa, đều nghĩ đến biểu tượng của một người phụ nữ thánh thiện, cao cả nhất thế gian này. Không vì với nhiều giải thưởng cao quý, trong đó có giải Nobel Hòa bình, và được Giáo hội công giáo phong Á thánh sau 6 năm qua đời, điều khiến mẹ Tersera vĩ đại hơn cả, đó là sự giản dị, quên mình và lòng nhân ái, quảng đại vô biên. Lúc sinh thời, Mẹ từng nói: “Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian này. Và theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về những người bất hạnh, khổ đau”. Với tất cả tấm lòng “đưa tay ra để chia sẻ – dành trái tim để yêu thương”, mẹ đã chăm sóc không mệt mỏi những kẻ bất hạnh bị lãng quên bên lên lề cuộc sống. Bằng lòng tin đặc biệt, bằng tầm nhìn thánh thiện, bằng trái tim chân thành và bằng những lời nguyện cầu, Mẹ đã viết nên những câu chuyện kỳ diệu về lòng chia sẻ và tình yêu thương. Khi còn là một nữ tu dòng Loreto trong vai trò là một giáo viên dạy địa lý và lịch sử, sơ Teresa không chỉ dạy chữ mà còn dạy thương yêu và dâng hiến tình yêu. Ngoài nhiệm vụ dạy học, sơ dành thời gian để giúp đỡ những người nghèo khổ trong những khu nhà ổ chuột ở Calcutta (Ấn Độ). Chứng kiến cuộc sống bi thảm của họ đã làm sống dậy trong sơ Teresa ước muốn được sống giữa người nghèo, nếm trải sự đói khổ cùng họ từ đó mới có thể thấu hiểu và xoa dịu nỗi đau của họ. Năm 38 tuổi, sơ quyết định rời bỏ dòng Đức Mẹ Loreto – một quyết định thật khó khăn và đau đớn để khoác lên người chiếc áo sari trắng viền xanh như những người phụ nữ Ấn Độ nghèo khó nhất. Cuộc hành hương vào giữa khổ đau của nhân loại thực sự bắt đầu. Trong suốt những câu chuyện của Mẹ Teresa được kể lại trong cuốn sách, Mẹ đã lồng vào đó đức tin của một nữ tu công giáo. Tuy nhiên, vượt lên những tư tưởng thần học đó là bức thông điệp đầy yêu thương. Mẹ từng nói, công việc từ thiện của chúng tôi chẳng gì hơn ngoài dòng chảy tuôn trào của tình yêu mà chúng tôi dành cho mọi người. Mẹ từng khuyên mọi người rằng, có thể chúng ta không đủ giàu có để giúp đỡ cho những người nghèo đói, không đủ tiền bạc hay của cải để hoán đổi cuộc đời của một ai đó, nhưng điều chúng ta luôn có thể làm – Đó là trao ban cho người khác nụ cười, niềm vui và sự tận tâm phục vụ. Ngay trong sự hy sinh phục vụ, ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống của mình. Phải chăng đó là một bài học về tình yêu đầy ý nghĩa. Sau hơn 50 năm dấn thân phục vụ những người cùng khổ Mẹ Teresa đã vĩnh viễn ra đi năm 1997. Mẹ đã sống 87 năm trọn vẹn với tình yêu thương và dâng hiến quên mình. Mẹ Teresa được cả thế giới xúc động và ngưỡng mộ, không vì mẹ là một tài năng xuất chúng, mà đơn giản vì Mẹ là một người giàu lòng trắc ẩn và một trái tim mở rộng yêu thương. Phương Hoa
“Mẹ Teresa – Trên cả tình yêu” (VTV Ngày 08/03/2008) Được mệnh danh là “Vị thánh của người cùng khổ” Mẹ Teresa là một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất và được kính trọng nhất của thế kỷ 20. Mẹ đã dành trọn đời mình cho những người nghèo, cho những trẻ em mồ côi sống vất vưởng trên đường phố, cho những con người đang bệnh tật, phong cùi hay đang hấp hối… Cuốn sách “Mẹ Teresa – Trên cả tình yêu” sẽ giúp bạn thấy rõ hơn chân dung người phụ nữ đặc biệt này. Bất cứ ai trên thế giới này, khi nhắc đến cái tên Teresa, đều nghĩ đến biểu tượng của một người phụ nữ thánh thiện, cao cả nhất thế gian này. Không vì với nhiều giải thưởng cao quý, trong đó có giải Nobel Hòa bình, và được Giáo hội công giáo phong Á thánh sau 6 năm qua đời, điều khiến mẹ Tersera vĩ đại hơn cả, đó là sự giản dị, quên mình và lòng nhân ái, quảng đại vô biên. Lúc sinh thời, Mẹ từng nói: “Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian này. Và theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về những người bất hạnh, khổ đau”. Với tất cả tấm lòng “đưa tay ra để chia sẻ – dành trái tim để yêu thương”, mẹ đã chăm sóc không mệt mỏi những kẻ bất hạnh bị lãng quên bên lên lề cuộc sống. Bằng lòng tin đặc biệt, bằng tầm nhìn thánh thiện, bằng trái tim chân thành và bằng những lời nguyện cầu, Mẹ đã viết nên những câu chuyện kỳ diệu về lòng chia sẻ và tình yêu thương. Khi còn là một nữ tu dòng Loreto trong vai trò là một giáo viên dạy địa lý và lịch sử, sơ Teresa không chỉ dạy chữ mà còn dạy thương yêu và dâng hiến tình yêu. Ngoài nhiệm vụ dạy học, sơ dành thời gian để giúp đỡ những người nghèo khổ trong những khu nhà ổ chuột ở Calcutta (Ấn Độ). Chứng kiến cuộc sống bi thảm của họ đã làm sống dậy trong sơ Teresa ước muốn được sống giữa người nghèo, nếm trải sự đói khổ cùng họ từ đó mới có thể thấu hiểu và xoa dịu nỗi đau của họ. Năm 38 tuổi, sơ quyết định rời bỏ dòng Đức Mẹ Loreto – một quyết định thật khó khăn và đau đớn để khoác lên người chiếc áo sari trắng viền xanh như những người phụ nữ Ấn Độ nghèo khó nhất. Cuộc hành hương vào giữa khổ đau của nhân loại thực sự bắt đầu. Trong suốt những câu chuyện của Mẹ Teresa được kể lại trong cuốn sách, Mẹ đã lồng vào đó đức tin của một nữ tu công giáo. Tuy nhiên, vượt lên những tư tưởng thần học đó là bức thông điệp đầy yêu thương. Mẹ từng nói, công việc từ thiện của chúng tôi chẳng gì hơn ngoài dòng chảy tuôn trào của tình yêu mà chúng tôi dành cho mọi người. Mẹ từng khuyên mọi người rằng, có thể chúng ta không đủ giàu có để giúp đỡ cho những người nghèo đói, không đủ tiền bạc hay của cải để hoán đổi cuộc đời của một ai đó, nhưng điều chúng ta luôn có thể làm – Đó là trao ban cho người khác nụ cười, niềm vui và sự tận tâm phục vụ. Ngay trong sự hy sinh phục vụ, ta tìm thấy ý nghĩa cuộc sống của mình. Phải chăng đó là một bài học về tình yêu đầy ý nghĩa. Sau hơn 50 năm dấn thân phục vụ những người cùng khổ Mẹ Teresa đã vĩnh viễn ra đi năm 1997. Mẹ đã sống 87 năm trọn vẹn với tình yêu thương và dâng hiến quên mình. Mẹ Teresa được cả thế giới xúc động và ngưỡng mộ, không vì mẹ là một tài năng xuất chúng, mà đơn giản vì Mẹ là một người giàu lòng trắc ẩn và một trái tim mở rộng yêu thương. Phương Hoa
Xem thêm nhiều hơn Thu gọn
Cho Tôi Xin Một Vé Đi Tuổi Thơ
| Từ lâu, Nguyễn Nhật Ánh đã được những độc giả nhỏ tuổi nhắc đến với tình cảm trìu mến bởi anh là một nhà văn của các em, viết vì các em, cho các em. Giống như tác giả tự thú nhận, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ “không hề giống với bất cứ cuốn sách nào”. Cuốn sách mở đầu bằng một nhận xét về cuộc đời của nhân vật chính là Mùi, một chú bé mới tám tuổi: “Cuộc sống thật là buồn chán và tẻ nhạt”. Với một loạt dẫn chứng hùng hồn, cậu cho rằng “cuộc sống thật là cũ kỹ”. Mở đầu như thế, cuốn sách khiến độc giả giật mình, tự hỏi, tuổi thơ thời bây giờ phải chăng đã già đi mất rồi? Và cu Mùi chỉ “trẻ” lại khi cùng các bạn mình bắt đầu loay hoay tìm mọi cách thoát khỏi sự buồn chán, vô vị bằng “bảo bối” sẵn có của trẻ thơ – đó là trí tưởng tượng. Với bảo bối ấy, các em chơi trò “vợ chồng, bố mẹ, con cái” nhưng nội dung của xã hội bé bỏng đó lại không sao chép cuộc sống của người lớn, mà hoàn toàn lật ngược, đảo tung hết mọi trật tự quen thuộc. Với bảo bối ấy, cu Mùi đã “tập tành làm một nhà cách mạng tí hon”, quyết không gọi “con gà là con gà, cuốn tập là cuốn tập, cây viết là cây viết” nữa. Ngay đến cả bảng cửu chương, 2 nhân 4 cũng không muốn là 8, mà “phải là cái gì cũng được, miễn là khác đi!”. Thậm chí, cu Mùi còn cho rằng, cả chuyện trái đất ngày ngày quay quanh mặt trời cũng là một việc hết sức buồn tẻ mà nếu nó là trái đất, nó sẽ… “tìm cách quay theo hướng khác”! Nó quan sát, phân tích cuộc sống chung quanh, đôi khi đưa ra những triết lý sắc bén về các quan hệ trong xã hội, về các khái niệm đối nghịch như con ngoan và con hư, sự đơn điệu và ổn định, sự êm đềm và vô vị, sự giống nhau và tính cá biệt, tri thức và bằng cấp. Nó thử định nghĩa cả tình yêu, rằng “yêu cũng như học bơi vậy, ai lười sẽ bị chìm”! Và cuối cùng, đứa trẻ còn phán xét cả những người lớn nữa! Phiên tòa “trẻ con xử người lớn” ban đầu, một cách thông thường, có thể tạo cho người đọc cảm giác hơi khó chịu, người lớn sẽ nhăn mặt vì sự thẳng thắn quá đáng của bọn trẻ. Thế nhưng, phiên tòa ấy phản ánh rất thật, rất đúng một đòi hỏi chính đáng của tuổi thơ – đó là sự công bằng. Ở các em, “đòi hỏi sự công bằng” không đồng nghĩa với “vô lễ” – hai khái niệm mà người lớn chúng ta thường nhầm lẫn, cũng như, với các em, “tình thương” và “sự tôn trọng” mà cha mẹ dành cho con cái hoàn toàn không là một! Cho dù cuốn sách có một nội dung khác thường như thế, Nguyễn Nhật Ánh vẫn cứ là Nguyễn Nhật Ánh khi anh luôn giữ nét đặc trưng trong văn phong của mình – chất hài hước nhẹ nhõm, đáng yêu – khiến khi đọc từ đầu tới cuối, nụ cười thú vị không rời môi ta. Song, cũng lại khác với các tác phẩm trước, cuốn sách không dừng lại ở chương thứ 12. Nó có phần “vĩ thanh” vô hình với rất nhiều điều khiến độc giả – người lớn day dứt. Là một người từng theo học ngành sư phạm, với Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, hình như Nguyễn Nhật Ánh đã viết được một cuốn “sách giáo khoa” cho môn học “Tâm lý học lứa tuổi”. Chỉ khác là, những luận đề, luận điểm của môn học ấy được trình bày bằng ngòi bút dí dỏm của nhà văn khiến bài học thấm thía hơn, dễ “vào” hơn bất kỳ một cuốn sách giáo khoa được soạn cẩn thận nào! Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ thực sự là cuốn truyện hữu ích cho cả người lớn và trẻ con. Tác giả đã kéo các thế hệ lại gần nhau hơn. Đọc nó, những người lớn vô tâm mải miết với cuộc sống cơm áo gạo tiền có thể sẽ dừng bước đôi chút mà ngoái về phía sau, nhớ lại thời thơ ấu, và cùng nhà văn gắng hiểu con em mình để rồi có một phương cách tiếp cận chúng từ một tư thế khác – tư thế của những người bạn – nhằm có thể xóa đi được “lằn ranh giữa trẻ con và người lớn” mà nhà văn cho là “khó ngang với xóa bỏ ranh giới giàu, nghèo trong xã hội”. Không chỉ vậy, cuốn sách cũng cho độc giả – người lớn có cơ hội hiểu rõ mình hơn bằng cách “chịu đựng” sự phán xét xác đáng của trẻ thơ với một loạt những so sánh về “các trò chơi” của trẻ con và người lớn! Còn với lứa tuổi thiếu niên, cuốn sách hẳn cũng sẽ đem lại cho các em niềm vui thích, nhưng ở góc độ khác và cung bậc khác. Các em nhìn thấy mình trong cuốn sách với tư cách là những người ngang hàng với nhà văn! Ở đây, “ngang hàng” có nghĩa là “được trân trọng và thấu hiểu”! Thụy Anh (từ LB Nga) |
Xem thêm nhiều hơn Thu gọn
Tru Tiên – Đại Kết Cục
(Thứ tư, 26/03/2008) Xuất bản ‘Tru Tiên – đại kết cục’ | Tập cuối bộ truyện được coi là một trong Tam đại kỳ thư Internet của Trung Quốc vừa được ra mắt – một năm sau khi tập đầu tiên được giới thiệu tại Việt Nam.
Tru Tiên – Đại kết cục giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ trong những màn đấu lực, đấu phép, tu chân luyện đạo với cách biểu đạt vừa êm đềm vừa phóng khoáng. Tập truyện tập trung gỡ nút bằng cách lý giải những câu hỏi như: vì sao Tru Tiên kiếm được đặt ở hậu sơn Thanh Vân, phải chăng là một cửa đạo trời mở cho người lên thành tiên? Vạn Kiếm Nhất không phải người sợ chết, mà sao lại chết cả cõi lòng? Quỷ tiên sinh có quan hệ gì với ông ta và Đạo Huyền? Người Trương Tiểu Phàm nhìn thấy trong lòng giếng năm nào phải chăng thực sự là Bích Dao, hay chỉ là một lời nói an ủi? Tuy là một tác giả trẻ, nhưng qua Tru Tiên, Tiêu Đỉnh thể hiện sự am hiểu về triết lý nhân quả, chính tà, thiện ác… Anh từng phát biểu: “Đối với tôi, Tru Tiên không chỉ là một tiểu thuyết, mà là một cá thể có đời sống riêng. Luôn luôn và luôn luôn, hai từ Tru Tiên hiện lên trong trí tôi như sự khẳng định về một thực thể tồn tại trên đời. Vì vậy, bằng sự tôn trọng đối với Tru Tiên, cũng như sự tôn trọng đối với độc giả, tôi phải bảo vệ quyền tự sinh tự sản của nó, các bạn không thể thay đổi được kết cục, tôi cũng vậy thôi, mặc dù tôi là người tạo ra Tru Tiên”. Sách do NXB Văn hóa Thông tin ấn hành.
B.T. (Evăn)
|
(Thứ tư, 26/03/2008) Xuất bản ‘Tru Tiên – đại kết cục’ | Tập cuối bộ truyện được coi là một trong Tam đại kỳ thư Internet của Trung Quốc vừa được ra mắt – một năm sau khi tập đầu tiên được giới thiệu tại Việt Nam.
Tru Tiên – Đại kết cục giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ trong những màn đấu lực, đấu phép, tu chân luyện đạo với cách biểu đạt vừa êm đềm vừa phóng khoáng. Tập truyện tập trung gỡ nút bằng cách lý giải những câu hỏi như: vì sao Tru Tiên kiếm được đặt ở hậu sơn Thanh Vân, phải chăng là một cửa đạo trời mở cho người lên thành tiên? Vạn Kiếm Nhất không phải người sợ chết, mà sao lại chết cả cõi lòng? Quỷ tiên sinh có quan hệ gì với ông ta và Đạo Huyền? Người Trương Tiểu Phàm nhìn thấy trong lòng giếng năm nào phải chăng thực sự là Bích Dao, hay chỉ là một lời nói an ủi? <P cla
|
|
|